Bài 5: Quy trình kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm hiện nay

Quy trình nuôi cá tra thương phẩm
Quy trình nuôi cá tra thương phẩm. Ảnh: VOV

Kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm không chỉ yêu cầu người nuôi có kiến thức, mà còn cần áp dụng các phương pháp hiện đại trong việc quản lý môi trường và chăm sóc thông qua việc đầu tư vào công nghệ tiên tiến.

Trong những năm gần đây, nghề nuôi cá tra đã trở thành một trong những lĩnh vực xuất khẩu chủ yếu của ngành thủy sản Việt Nam, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao đời sống cho người dân. Tuy nhiên, sự ô nhiễm môi trường nước ngày càng gia tăng cùng với chất lượng con giống suy giảm đã dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao, làm giảm lợi nhuận cho người nuôi. Dưới đây là quy trình kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm hiệu quả kinh tế mà bà con có thể tham khảo.

Chọn giống

Việc lựa chọn cá giống để thả nuôi cần được thực hiện một cách cẩn trọng nhằm đảm bảo chất lượng, giúp cá phát triển tốt trong quá trình nuôi trồng. Nên ưu tiên chọn những con giống khỏe mạnh, hoạt bát, có khả năng phản ứng nhanh với các tác động bên ngoài, không có dấu hiệu bị thương tích, mất nhớt, các vây và kỳ phải đầy đủ và không bị tổn hại, không có dị hình hay dị tật, không mang mầm bệnh, và kích thước đồng đều. Cá giống được thả nên có kích thước từ 10 đến 12 cm để giảm thiểu tình trạng hao hụt trong quá trình nuôi.

Chuẩn bị ao nuôi

Ao nuôi cá tra cần có diện tích tối thiểu 500 m2, với độ sâu nước từ 1,5 đến 2m. Bờ ao phải được xây dựng kiên cố và cao hơn mức nước cao nhất trong năm. Cần thiết kế hệ thống cống để thuận tiện cho việc cấp và thoát nước. Trước khi tiến hành thả cá, cần thực hiện các bước chuẩn bị như sau:

Đầu tiên, tháo cạn hoặc tát cạn ao để bắt hết cá còn lại. Tiến hành dọn sạch rong rêu và cỏ dại dưới đáy ao cũng như ở bờ ao. Nạo vét bớt lớp bùn lỏng ở đáy ao, chỉ để lại lớp bùn dày khoảng 0,2 – 0,3 m.

Lấp kín các hang hốc và sửa chữa lại bờ, mái bờ ao. Sử dụng vôi bột rải đều trên đáy ao và bờ ao với liều lượng từ 7 – 10 kg cho mỗi 100 m2. Phơi khô đáy ao trong khoảng 2 – 3 ngày. Cuối cùng, cấp nước vào ao qua lưới lọc để ngăn chặn sự xâm nhập của cá tạp, cua còng và rác thải.

Kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm

Cá tra giống
Cá tra giống. Ảnh: fishmarketbd

Thời điểm lý tưởng để thả cá giống là vào buổi sáng hoặc chiều mát. Cần tránh việc thả cá trong điều kiện thời tiết xấu như mưa lớn hay nắng gắt, vì có thể gây sốc nhiệt cho cá.

Trước khi tiến hành thả cá, nên tắm cho cá bằng dung dịch nước muối 2% (20 gram muối hòa với 1 lít nước) trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 phút nhằm loại bỏ ký sinh trùng và ngăn ngừa nhiễm trùng ở các vết thương.

Đối với cá giống được đóng trong túi nilon, trước khi thả, cần ngâm túi cá vào trong nước ao khoảng 10 – 15 phút để điều chỉnh nhiệt độ trong túi tương đương với nhiệt độ nước ao, giúp cá làm quen với môi trường mới.

Khi thả cá, một tay mở miệng túi để nước chảy vào từ từ, cho cá tự bơi ra, trong khi tay còn lại vỗ nhẹ trên mặt nước để cung cấp oxy cho cá. Khi cá đã ra khỏi túi khoảng 1/2 đến 2/3 số lượng, mới dốc túi để thả hết cá ra.

Đối với cá giống được vận chuyển hở trên xe ô tô có quây bạt, trước khi thả cần cân bằng môi trường giữa nước ao và nước trong xe bằng cách xả bớt nước trong thùng, đồng thời bổ sung nước từ ao nuôi vào, nhằm tránh sốc môi trường cho cá, sau đó mới tiến hành thả cá từ từ.

Nếu có điều kiện, có thể thiết lập một khu vực lưới mắt nhỏ tại góc ao, sau đó thả cá giống vào đó và lắp đặt máy bơm tạo dòng chảy nhẹ để tăng cường oxy cho cá. Chờ cho đến khi cá ổn định, mới thực hiện thả cá ra ao chính, sẽ nâng cao tỷ lệ sống sót của cá.

Có thể sử dụng Nano đồng liều 1 lít/1000m3 nước tạt đều khắp ao để tiêu diệt ký sinh trùng và ngăn ngừa nhiễm trùng ở các vết thương nếu có ở cá.

Trong ngày đầu tiên sau khi thả giống, không nên cho cá ăn. Trong ba ngày tiếp theo, nên cho cá ăn 1 lần/ngày vào lúc 08:00 với khẩu phần khoảng 0.5 – 0.8% trọng lượng tổng đàn cá.

Khi tiến hành cho cá ăn, cần rải thức ăn một cách từ từ và đồng đều khắp ao để đảm bảo tất cả các cá có thể tiếp cận thức ăn, điều này sẽ giúp hạn chế sự phân đàn của cá. Đồng thời, việc giảm thiểu thời gian thức ăn tiếp xúc với nước ngắn hơn giúp bảo toàn dinh dưỡng của thức ăn và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường nước. Ngoài ra, khẩu phần ăn và lượng thức ăn nên được điều chỉnh dựa trên điều kiện thời tiết và tình trạng sức khỏe của cá.

Trong mùa lạnh, khi cá có xu hướng ăn ít, chỉ nên cho cá ăn 1 lần mỗi ngày vào khoảng thời gian nhiệt độ nước cao nhất (khoảng 15:00 – 16:00) và cung cấp tối đa lượng thức ăn. Kích thước viên thức ăn cần được điều chỉnh tùy thuộc vào cỡ cá trong ao.

Về quản lý môi trường ao nuôi, bà con nên thường xuyên theo dõi các yếu tố môi trường hàng ngày. Cần kiểm tra và quan sát ao để kịp thời xử lý những hiện tượng bất thường như rò rỉ nước hay sụt lở bờ. Theo dõi liên tục hoạt động bơi lội và bắt mồi của cá để phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường, từ đó nhanh chóng xác định nguyên nhân và có biện pháp xử lý kịp thời. Nên thay nước cho cá thường xuyên, mỗi lần khoảng 20 – 30% tổng lượng nước trong ao.

Thời điểm thay nước nên thực hiện vào lúc triều cường. Định kỳ sử dụng Nano Enzyme và Nan Bacillus để làm sạch đáy ao, phân hủy các chất hữu cơ và hấp thu các khí độc như NH3, H2S. Mỗi tháng, cần kiểm tra tốc độ tăng trưởng của cá từ 1 đến 2 lần bằng cách bắt ngẫu nhiên 20 – 30 cá thể để đo kích thước và trọng lượng trung bình, đồng thời kiểm tra tình trạng sức khỏe của cá.

Phòng bệnh

Để nâng cao sức khỏe và khả năng đề kháng của cá, bà con cần bổ sung Vitamin C, khoáng và men tiêu hóa định kỳ 7 – 10 ngày nhằm giúp cá khỏe mạnh và hấp thu tốt dinh dưỡng từ thức ăn.

Để hạn chế sự phát triển của mầm bệnh và vi khuẩn trong ao nuôi, bà con cần thường xuyên hút bùn ở đáy ao. Quá trình hút bùn nên được thực hiện từ từ và nhẹ nhàng để tránh làm đục nước, vì khí độc có thể hòa tan vào nước gây hại cho cá.

Cần thực hiện các biện pháp hạn chế sự phát triển của mầm bệnh ký sinh trong cơ thể cá. Định kỳ từ 20 đến 30 ngày, tiến hành xổ ký sinh và diệt khuẩn cho cá bằng Nano đồng (Nano Copper Pro) liều 1L/1000m3 và trộn cho ăn 5ml/kg thức ăn. Mỗi đợt xổ thực hiện 2 tuần/tuần và chỉ thực hiện một lần mỗi ngày vào buổi sáng.

Thu hoạch

Thời gian nuôi trung bình khoảng 10 tháng, cá sẽ đạt kích cỡ từ 0,7 đến 1,5 kg mỗi con. Có thể thu hoạch một lần và giữ lại những con cá nhỏ chưa đạt kích thước thương phẩm. Nên ngừng cho cá ăn ít nhất một ngày trước khi tiến hành thu hoạch.

Khi thu hoạch, sử dụng lưới sợi mềm để bắt cá một cách nhẹ nhàng, tránh kéo dồn quá nhiều cá vào lưới để giảm thiểu tình trạng xây xát và chết cá. Cần nhanh chóng lựa chọn, phân loại kích cỡ cá và rửa sạch trước khi đưa vào dụng cụ bảo quản và vận chuyển. Sản phẩm cần được chuyển ngay đến nhà máy chế biến hoặc địa điểm tiêu thụ. Sau mỗi vụ thu hoạch, cần tát cạn ao và tiến hành các công tác chuẩn bị cho vụ nuôi tiếp theo.

Các bệnh thường gặp khi nuôi cá tra thương phẩm

Các bệnh thường gặp khi nuôi cá tra thương phẩm. Ảnh: Nano Vietnam Technology
Một số bệnh thường gặp khi nuôi cá tra thương phẩm. Ảnh: Nano Vietnam Technology

Đầu tiên, bệnh xuất huyết (đốm đỏ, nhiễm trùng máu) do vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây ra. Mặc dù không nằm trong danh mục bệnh động vật thủy sản phải công bố dịch, nhưng bệnh này rất nguy hiểm và có thể gây thiệt hại lớn cho người nuôi.

Vi khuẩn Aeromonas hydrophila luôn hiện diện trong môi trường ao nuôi và có khả năng lây lan nhanh từ cá bị nhiễm bệnh hoặc từ môi trường sang cá khỏe mạnh.

Bệnh có thể xảy ra quanh năm ở mọi giai đoạn phát triển của cá; tuy nhiên, tỷ lệ bùng phát cao hơn vào mùa khô (tháng 2-3 âm lịch), tháng 7-8 trong mùa nước lũ và tháng 11 trong mùa nước rút. Tỷ lệ chết ở cá nhiễm bệnh nặng có thể lên tới 90%.

Thứ hai, bệnh gan thận mủ do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây ra, thường xuất hiện từ mùa xuân đến mùa thu, khi môi trường giàu dinh dưỡng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn E. ictaluri, vốn đã tồn tại trong nước ao nuôi và bùn đáy ao. Trước đây, bệnh thường bùng phát nhiều vào tháng 7 và 8 âm lịch, nhưng trong những năm gần đây, bệnh đã xuất hiện rải rác quanh năm ở tất cả các giai đoạn phát triển của cá tra. Tỷ lệ chết ở cá nhiễm bệnh có thể dao động từ 10-50%.

Cuối cùng, bệnh do ký sinh trùng lây nhiễm qua môi trường nước ao nuôi. Khi cá bị nhiễm với số lượng lớn ký sinh trùng, sẽ dẫn đến tình trạng tăng trưởng chậm, thậm chí có thể gây chết hàng loạt, đặc biệt là ở giai đoạn cá giống. Bệnh này cũng tạo điều kiện cho các vi khuẩn, virus và nấm xâm nhập, gây bệnh và làm chết cá.

Bệnh ký sinh trùng thường gây thiệt hại cho cá tra từ giai đoạn ương giống đến nuôi thương phẩm. Trong giai đoạn cá nhỏ, thường gặp nhóm ngoại ký sinh trùng, trong khi ở giai đoạn nuôi thương phẩm, cá thường bị nhiễm một số nhóm nội ký sinh trùng có vòng đời phát triển cần ký chủ trung gian như sán lá, sán dây và giun tròn.

Kỹ thuật nuôi cá tra thương phẩm không chỉ yêu cầu người nuôi có kiến thức về đặc điểm sinh học mà còn cần áp dụng các phương pháp hiện đại trong việc quản lý môi trường và chăm sóc để giúp tối ưu hóa năng suất, giảm thiểu rủi ro và bảo vệ môi trường. Trong tương lai, ngành nuôi cá tra tại Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển một cách bền vững, đáp ứng nhu cầu cả trong nước lẫn quốc tế, đồng thời nâng cao giá trị kinh tế và vị thế của ngành thủy sản nước ta trên thị trường toàn cầu.

Minh – Nano Vietnam Technology

 

Bài viết liên quan

Bài viết mới nhất

Sản phẩm nổi bật