
Nghề cá nước lạnh cần đa dạng hóa mô hình sản xuất, trong đó doanh nghiệp làm nòng cốt, khuyến khích các hình thức liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và các hộ dân.
Phụ lục
ToggleViệt Nam nằm trong top 6 nước có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới
Mới đây, Cục Thủy sản và Kiểm ngư đã có Văn bản số 1707/TSKN-GTATS trả lời đề nghị của Hội cá nước lạnh Lào Cai tại Văn bản số 05/HCNL ngày 4/8/2025 về việc đề nghị kiểm soát sản lượng cá tầm nhập khẩu vào Việt Nam.
Cục Thủy sản và Kiểm ngư khẳng định, trong thời gian qua, Hội cá nước lạnh Lào Cai đã có đóng góp tích cực trong việc thúc đẩy phát triển nghề nuôi cá nước lạnh tại Việt Nam nói chung và tại Lào Cai nói riêng. Kết quả nghề nuôi cá nước lạnh của nước ta đã được ghi nhận tại Hội nghị Tổng kết 20 năm phát triển cá nước lạnh và giải pháp phát triển trong thời gian tới được tổ chức vào ngày 7/6/2024 tại tỉnh Lâm Đồng.
Sau 20 năm phát triển, cá nước lạnh (chủ yếu là cá tầm) đã trở thành đối tượng nuôi quan trọng của các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Sản lượng cá nước lạnh tăng nhanh trong thời gian qua. Tăng trưởng sản xuất trong giai đoạn 2007 – 2023 trung bình 49,13%/năm, đưa Việt Nam vào nhóm 6 nước có sản lượng cá tầm lớn nhất thế giới.
Việc phát triển nuôi cá nước lạnh đã tạo thêm hướng đi mới cho nuôi trồng thủy sản, góp phần khai thác tiềm năng các thủy vực nước lạnh, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo việc làm, gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần bảo vệ an ninh quốc phòng tại các vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên giới.
Tuy nhiên, Cục Thủy sản và Kiểm ngư nhấn mạnh, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hàng hóa dịch vụ và vốn được lưu chuyển tự do giữa các quốc gia. Việc tham gia WTO/FTA thường cam kết giảm rào cản thương mại.
Do vậy, nghề nuôi cá nước lạnh cần chủ động áp dụng các quy trình, công nghệ sản xuất tiên tiến theo hướng công nghiệp, phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng để nâng cao tỷ lệ sống, đảm bảo sản xuất có hiệu quả, tiết kiệm nước, bảo vệ môi trường sinh thái và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Đồng thời, cũng cần đa dạng hóa mô hình sản xuất, trong đó doanh nghiệp làm nòng cốt, khuyến khích các hình thức liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và các hộ dân, gắn với thị trường tiêu thụ, minh bạch về chất lượng nhằm tăng tính cạnh tranh giảm giá thành sản phẩm, nâng cao giá trị thương hiệu cá nước lạnh Việt Nam.
Nghiên cứu, xây dựng thương hiệu đối với sản phẩm cá tầm sản xuất tại Việt Nam
Nhằm phát triển nghề nuôi cá nước lạnh, Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, sẽ tham mưu Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục đàm phán với các quốc gia, vùng lãnh thổ có thế mạnh phát triển cá nước lạnh để nhập nội giống cá nước lạnh mới có giá trị kinh tế, phù hợp với điều kiện sinh thái nhằm đa dạng đối tượng nuôi.
Tiếp tục rà soát các thủ tục hành chính tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp nhập khẩu giống, vật tư phục vụ cho sản xuất cá nước lạnh.

Tham mưu Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo các tổ chức khoa học công nghệ nghiên cứu rà soát, hoàn thiện, chuyển giao quy trình công nghệ sản xuất giống, quy trình nuôi thương phẩm, phòng trị bệnh để đảm bảo chất lượng con giống và nâng cao tỷ lệ sống, giảm ô nhiễm môi trường.
Cục Thủy sản và Kiểm ngư cũng đề nghị cơ quan quản lý thủy sản địa phương tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực thi Luật Thủy sản và các quy định của pháp luật có liên quan trong nuôi cá tầm.
Tổ chức kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về thủy sản, về quản lý nuôi động vật nguy cấp quý hiếm, nhất là việc thực hiện quy định về nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng, trồng cấy nhân tạo loài thủy sản thuộc phụ lục của Công ước Quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES); loài thủy sản nguy cấp quý hiếm (Điều 40 Luật Thủy sản năm 2017). Kịp thời phát hiện vi phạm và xử lý theo quy định (nếu có);
Tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ các tổ chức, cá nhân đã được cấp phép nhập khẩu cá tầm theo Thông tư 25/2018/TT-BNNPTNT ngày 18/11/2018 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường); xử lý nghiêm các trường hợp không tuân thủ và công khai cơ sở vi phạm theo quy định (nếu có).
Đề nghị Hội và cơ sở sản xuất cá nước lạnh tuyên truyền, phổ biến hội viên thực hiện đầy đủ quy định tại Luật Thủy sản, các văn bản hướng dẫn Luật Thủy sản và Công ước CITES trong nuôi và lưu thông sản phẩm cá tầm, tập trung vào việc cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản; xác nhận nguồn gốc loài thủy sản; chứng nhận cơ sở đủ điều kiện nuôi sinh trưởng, trồng cấy nhân tạo loài thủy sản thuộc phụ lục của Công ước quốc tế về buôn bán các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; loài thủy sản nguy cấp quý hiếm theo quy định.
Tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết; nghiên cứu, cải tiến quy trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm.
Nghiên cứu, xây dựng thương hiệu đối với sản phẩm cá tầm sản xuất tại Việt Nam, đảm bảo truy xuất được nguồn gốc sản phẩm khi lưu thông trên thị trường.
Lo ngại ngành cá nước lạnh trong nước đứng trước nguy cơ bị xóa sổ
Trước đó, Hội Cá nước lạnh Lào Cai đã có Văn bản số 05/HCNL gửi Bộ Nông nghiệp và Môi trường; Bộ Công Thương; Cục Hải quan; UBND tỉnh Lào Cai đề nghị kiểm soát sản lượng cá tầm nhập khẩu vào Việt Nam.
Hội cá nước lạnh Lào Cai cho biết: “Cá tầm nhập khẩu chủ yếu qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc, được tiêu thụ dưới dạng tươi sống, cạnh tranh trực tiếp với sản phẩm nội địa, khiến giá cá trên thị trường trong nước giảm. Giá thấp không đủ bù đắp chi phí sản xuất khiến nhiều cơ sở nuôi thu hẹp quy mô hoặc ngừng hoạt động, dẫn đến thua lỗ, phá sản; ngành cá nước lạnh trong nước đứng trước nguy cơ bị xóa sổ”.
Bên cạnh đó, một số sản phẩm cá tầm nhập khẩu từ Trung Quốc đôi khi được tiêu thụ trên thị trường dưới tên thương hiệu cá tầm Lào Cai, gây ảnh hưởng đến sự ổn định thị trường và niềm tin của người tiêu dùng.

Để ngành cá nước lạnh mới hình thành trong nước tiếp tục phát triển, Hội cá nước lạnh Lào Cai đề nghị Bộ Công Thương tăng cường công tác quản lý hoạt động nhập khẩu cá tầm qua các cửa khẩu quốc tế, lối mở, khu kinh tế cửa khẩu; yêu cầu kiểm dịch bắt buộc, chứng minh nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, truy xuất được đơn vị sản xuất tại nước xuất khẩu.
Có biện pháp kiểm soát giá sàn nhập khẩu để tránh hiện tượng bán phá giá, gây rối loạn thị trường cá tầm trong nước. Xây dựng hàng rào kỹ thuật hợp lý nhằm bảo vệ sản xuất trong nước.
Tổ chức các chương trình kết nối cung cầu, xúc tiến thương mại cho sản phẩm cá tầm nội địa; khuyến khích các hệ thống phân phối lớn, nhà hàng, siêu thị ưu tiên sử dụng sản phẩm cá tầm có chứng nhận nguồn gốc trong nước.
Đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cân đối, kiểm soát và cấp phép hợp lý sản lượng cá tầm nhập khẩu (có thể áp dụng hạn ngạch nhập khẩu để phục vụ tiêu dùng trong nước, nếu vượt hạn ngạch thì không cho nhập thêm).
Tăng cường giám sát chất lượng, chủng loại và nguồn gốc cá nhập khẩu. Xây dựng chính sách kỹ thuật, thương mại và bảo hộ hợp lý cho sản xuất cá nước lạnh trong nước. Tổ chức hội thảo tham vấn với các địa phương có vùng nuôi.
Xem xét tạm thời hạn chế sản lượng cá tầm nhập khẩu trong bối cảnh thị trường nội địa đang khó khăn, để không ảnh hưởng đến ngành cá nước lạnh trong nước.
Tạo điều kiện và hỗ trợ cho các cơ sở nuôi thành lập Hợp tác xã, ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến, phát triển các dự án sản xuất theo chuỗi liên kết.
Đề nghị Cục Hải quan tăng cường kiểm soát hoạt động nhập khẩu cá tầm tại cửa khẩu. Yêu cầu đầy đủ hồ sơ hợp pháp đối với cá nhập khẩu (CITES, kiểm dịch, nguồn gốc…). Phối hợp với cơ quan chuyên môn để kiểm soát đúng mục đích nhập khẩu.
Đề nghị UBND tỉnh Lào Cai chỉ đạo Sở Công Thương Lào Cai chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh, vận chuyển, tiêu thụ cá tầm trên địa bàn tỉnh, đặc biệt tại các chợ đầu mối, cửa khẩu, kho đông lạnh và các điểm tập kết trung chuyển.
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu cá tầm qua các cửa khẩu quốc tế và lối mở tại khu vực biên giới, ngăn chặn tình trạng vận chuyển, đưa cá vào nội địa không qua kiểm soát và không bảo đảm quy định kiểm dịch.
Hồng Thắm (Báo nông Nghiệp Việt Nam)